Danh Sách Dịch Vụ

Top 6 Bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch lớp 7 hay nhất

Bài thơ “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” được Lí Bạch sáng tác khi ông ở xa quê của mình do Tương Như dịch, in trong Thơ Đường, tập II. Bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà, xa quê hương trong cảnh đêm trăng thanh tĩnh. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch hay nhất đã được Danhsachtop tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch số 4

I. Đọc – hiểu văn bản:

Câu 1:

Trong bài thơ này, hai câu đầu thiên về tả cảnh , hai câu sau thiên về tả tình.

Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ đang nằm mà không ngủ được. Và thấy ánh trăng xuyên qua cửa rọi vào mình. Trong trạng thái mơ màng ấy mới có cái sự nghi ngờ rất đẹp “ngỡ là sương”. Vì thế, dù không trực tiếp tả người , câu thơ vẫn gợi lên trạng thái và tình cảm của con người.

Hai câu thơ sau chỉ có ba chữ trực tiếp tả tình “tư cố hương” còn lại đều tả cảnh, tả người. Vì thế, tác giả tả cảnh để truyền tải tình yêu quê hương da diết.

Câu 2:

a. Tác giả sử dụng phép đối ở hai câu cuối: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng / Cúi đầu nhớ cố hương”.

Hai câu đối rất chuẩn về mặt từ loại: động từ/ động từ (cử đầu – đê đầu), (vọng – tư), tính từ / tính từ (minh – cố), danh từ/ danh từ (nguyệt – hương).

b. Phép đối có tác dụng làm cho người đọc thấy được rõ hơn sự nhớ quê hương, chìm đắm trong nỗi nhớ, trăng thấm đẫm buồn của nhà thơ. Cái cúi đầu, ngẩng đầu chỉ trong khoảnh khắc nhưng nhưng cho thấy tình cảm yêu quê hương đó luôn thường trực , sâu nặng biết bao.

Câu 3:

Bốn động từ “nghi, cử, đê, tư” cho chúng ta thấy được mạch cảm xúc của bài thơ. Bốn động từ tuy bị bị tỉnh lược chủ ngữ nhưng vẫn khẳng định được là ở đây chỉ có một chủ ngữ duy nhất. Đó là chủ thể trữ tình, chủ thể hành động ở đây chính là tác giả.

Cảm xúc vận động rất nhanh: nhân vật trữ tình bị tỉnh giấc thì nhận ra ánh trăng lọt vào khe cửa, ngỡ như là sương rồi ngẩng lên như là một hành động xác nhận. Nhưng rồi chính khoảnh khắc ngẩng đầu lại là giây phút nhà thơ nhớ về quê hương. Và hành động cúi đầu như đang kìm nén cảm xúc đang trào dâng trong lòng tác giả.

II. LUYỆN TẬP

Nhận xét 2 câu thơ dịch :

“Đêm thu trăng sáng như gương

Lí Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”

Ta thấy, 2 câu thơ ngắn gọn nhưng chỉ nêu được nội dung là thấy trăng sáng, Lí Bạch ngắm trăng và nhớ quê nhà nhưng không thấy được nét đặc sắc nghệ thuật ở trong 2 câu thơ này. Ở bản dịch cũ có động từ “ngỡ” thể hiện sự bắt gặp một cách tự nhiên, ngỡ ngàng và trăng được so sánh với “sương” còn ở bản dịch mới thì hoàn toàn bị mất đi. Để sự bắt gặp ngẫu nhiên đó, tác giả mới dâng trào cảm xúc và càng nhớ quê nhà nhiều hơn.

Bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch số 6

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

Lí Bạch (701 – 762), là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Đường, tự là Thái Bạch, hiệu là Thanh Liên cư sĩ, quê ở Cam Túc, nhưng ngay từ khi 5 tuổi, ông đã theo gia đình về sống ở Tứ Xuyên. Chính vì thế, Lí Bạch vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê của mình. Từ nhỏ, nhà thơ đã thích ngao du, mong lập nên công danh sự nghiệp, song đường quan nghiệp của ông vẫn còn nhiều trắc trở.

Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”. Thơ ông biểu hiện một tâm hồn tự do, hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện. Lí Bạch thường viết về đề tài chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.

2. Tác phẩm

Có người nói, thơ của Lí Bạch tràn ngập ánh trăng. Hình ảnh trăng trong thơ của Lí Bạch hết sức đa dạng, ý nghĩa cũng vô cùng phong phú. Chủ đề của bài thơ rất quen thuộc “Vọng nguyệt hoài hương”, cách thể hiện cũng rất giản dị mà độc đáo, tinh tế mà không hề trau chuốt.

Bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh được viết theo hình thức cổ thể, một thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5 hoặc 7 chữ, song không bị những quy tắc chặt chẽ về niêm luật và đối ràng buộc.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Có người cho rằng, trong bài thơ Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu là thuần túy tả cảnh, hai câu cuối là thuần túy tả tình là chưa chính xác. Nếu chính xác thì phải nói là hai câu đầu nghiêng về tả cảnh, hai câu cuối nghiêng về tả tình. Bởi vì:

* Hai câu đầu:

Vị trí miêu tả ánh trăng của nhà thơ là ở “sàng tiền” (đầu giường), thể hiện sự thao thức, trằn trọc không ngủ được của nhà thơ có thể vì trăng quá đẹp và nhà thơ là một người rất yêu trăng, lại đang xa quê nên nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trào dâng.
Câu thơ thứ hai miêu tả ánh trăng ánh trăng ngập tràn không gian nhưng ta vẫn cảm nhận được sự thay đổi của vị trí ngắm cảnh của thi nhân, từ “sàng tiền” đến “song tiền” (cửa sổ) mới có thể thấy được mặt đất và có cảm giác “ngỡ phủ sương” => tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến.
=> Hai câu đầu cho thấy cảnh đã chứa đựng cả tâm tình, chứ không chỉ mỗi tả cảnh.

* Hai câu cuối:

Cụm từ “nhớ cố hương” thể hiện tình cảm trào dâng cuồn cuộn để đọng lại thành nỗi sầu nhớ thương của tác giả khi nghĩ về quê hương.
“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng” cho thấy cả một bầu trời cao lồng lộng và một vầng trăng sáng trong vằng vặc thanh tĩnh đang hiện ra trước mắt người đọc. => một đêm trăng thật đẹp nhưng cũng thật cô đơn.
* Có thể nói, cảnh và tình trong bài thơ có mối liên hệ nhân quả và sự tác động qua lại. Vì trăng đẹp quá mà nhà thơ nhớ đến quê hương, rồi trằn trọc, thao thức không ngủ được. Và càng thao thức, càng trằn trọc không ngủ được thì lại càng thấy trăng đẹp.

Như vậy, từ đó, ta có thể rút ra kết luận: trong bài thơ này (và một số bài thơ Đường khác nữa), hai câu đầu (hoặc nửa trên) thường thiên về tả cảnh (trong cảnh có tình), hai câu sau (hoặc nửa dưới) thường thiên về tả tình (trong tình có cảnh).

Câu 2:

Tuy không phải là một bài thơ Đường luật, song bài thơ Tĩnh dạ tứ cũng sử dụng phép đối:

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương.

a) Về mặt từ loại của các chữ ở hai câu trên của phép đối: cử đầu >< đê đầu (động từ – động từ), vọng >< tư (động từ – động từ), minh >< cố (tính từ – tính từ), nguyệt >< hương (danh từ – danh từ).

b) Tác dụng của phép đối: vừa diễn tả cử chỉ, vừa thể hiện tâm trạng nhớ quê hương của nhà thơ một cách hài hòa, rõ nét.

Câu 3:

Dựa vào 4 động từ “nghi” (ngỡ là), “cử” (ngẩng), “đê” (cúi), “tư” (nhớ), chúng ta có thể thấy được sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.

Bốn động từ dù bị lược đi chủ thể hành động nhưng vẫn có thể dễ dàng khẳng định chủ thể trữ tình, chủ thể hành động ở đây chính là tác giả.

Đặc biệt, năm động từ này có thể được hiện thực hóa bằng văn xuôi như sau: nhân vật trữ tình (nhà thơ) tỉnh dậy (hoặc đang mơ màng) thì chợt nhận ra ánh sáng lọt qua khe cửa, ngỡ ngàng vì không biết là sương hay là trăng, nhà thơ liền ngẩng lên như một hành động để xác nhận. Nhưng rồi, chính cái ngẩng đầu đó đã gợi về trong lòng tác giả nỗi niềm nhớ quê hương của người xa xứ. Khi đó, hành động cúi đầu như là đang cố nén đi cảm xúc mãnh liệt đang trào dâng.

Tóm lại, bài thơ Tĩnh dạ tứ, với những ngôn từ giản dị mà điêu luyện, đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.

Bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch số 2

Trả lời câu 1 (trang 124 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

Trong bài thơ này, hai câu đầu thiên về tả cảnh, hai câu sau thiên về tả tình.

– Hai câu thơ đầu: nhà thơ đang nằm mà không ngủ được. Và thấy ánh trăng xuyên qua cửa rọi vào mình. Trong trạng thái mơ màng ấy mới có cái sự nghi ngờ rất đẹp “ngỡ là sương”. Vì thế, dù không trực tiếp tả người , câu thơ vẫn gợi lên trạng thái và tình cảm của con người.

– Hai câu thơ sau: chỉ có ba chữ trực tiếp tả tình “tư cố hương” còn lại đều tả cảnh, tả người. Vì thế, tác giả tả cảnh để truyền tải tình yêu quê hương da diết.


Trả lời câu 2 (trang 124 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

a. Tác giả sử dụng phép đối ở hai câu cuối: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng / Cúi đầu nhớ cố hương”.

– Hai câu đối rất chuẩn về mặt từ loại: động từ/ động từ (cử đầu – đê đầu), (vọng – tư), tính từ / tính từ (minh – cố), danh từ/ danh từ (nguyệt – hương).

b. Phép đối có tác dụng làm cho người đọc thấy được rõ hơn sự nhớ quê hương, chìm đắm trong nỗi nhớ, trăng thấm đẫm buồn của nhà thơ.


Trả lời câu 3 (trang 124 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):

– Bốn động từ “nghi, cử, đê, tư” cho chúng ta thấy được mạch cảm xúc của bài thơ. Đó là chủ thể trữ tình, chủ thể hành động ở đây chính là tác giả.

– Cảm xúc vận động rất nhanh: nhân vật trữ tình bị tỉnh giấc thì nhận ra ánh trăng lọt vào khe cửa, ngỡ như là sương rồi ngẩng lên như là một hành động xác nhận. Nhưng rồi chính khoảnh khắc ngẩng đầu lại là giây phút nhà thơ nhớ về quê hương. Và hành động cúi đầu như đang kìm nén cảm xúc đang trào dâng trong lòng tác giả.


Luyện tập

Nhận xét 2 câu thơ dịch :

“Đêm thu trăng sáng như gương

Lí Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”

Ta thấy, 2 câu thơ ngắn gọn nhưng chỉ nêu được nội dung là thấy trăng sáng, Lí Bạch ngắm trăng và nhớ quê nhà nhưng không thấy được nét đặc sắc nghệ thuật ở trong 2 câu thơ này.

Bố cục

Bố cục: 2 phần

– Phần 1 (hai câu đầu): Cảnh đêm thanh tĩnh.

– Phần 2 (hai câu tiếp): Cảm nghĩ của tác giả.

Nội dung chính

Video hướng dẫn giải

Bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình yêu quê hương của Lí Bạch khi ông phải sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.

Bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch số 1

I. Đôi nét về tác giả Lý Bạch
– Lí Bạch (701-762), nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Tam Cúc
– Lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.
– Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu dân giúp đời song ông chưa bao giờ được toại nguyện.
– Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”
– Đặc điểm thơ Lí Bạch:
+ Biểu hiện một tâm hồn tự do, hào phóng
+ Hình ảnh thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ
+ Ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện
+ Ông thường viết rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn

II. Đôi nét về tác phẩm Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh
1. Xuất xứ
– Bài thơ được sáng tác khi ông ở xa quê của mình
– Bài thơ do Tương Như dịch, in trong Thơ Đường, tập II
2. Bố cục (2 phần)
– Phần 1 (hai câu đầu): cảnh trăng sáng và tâm trạng của tác giả
– Phần 2 (hai câu còn lại): nỗi nhớ quê hương của tác giả
3. Giá trị nội dung
Bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà, xa quê hương trong cảnh đêm trăng thanh tĩnh.
4. Giá trị nghệ thuật
– Thể thơ ngũ ngôn cổ thể
– Ngôn ngữ giản dị mà tinh luyện
– Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm
– Nghệ thuật đối


III. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 124 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Hai câu thơ đầu thiên về tả cảnh, hai câu sau thiên về tả tình

+ Hình ảnh ánh trăng suốt hiện ở “sàng tiền” thể hiện sự thao thức, trăn trở không ngủ được của nhà thơ: Lí Bạch yêu trăng, nhớ quê

+ Câu thơ thứ 2: Ánh trăng tràn ngập không gian đồng nghĩa với việc vị trí ngắm trăng thay đổi từ sàng tiền tới song tiền: tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến

⇒ Hai câu thơ đầu, từ cảnh nhận ra tình

– Hai câu thơ sau: nỗi niềm nhớ cố hương hiện hữu rõ nét

+ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng: Vầng trăng thanh tĩnh, sáng dịu hiền hiện ra, đây là đêm trăng đẹp nhưng yên tĩnh

→ Mối quan hệ nhân quả giữa cảnh và tình tác động qua lại: Vì trăng sáng nên không ngủ được, không ngủ được càng thấy trăng sáng hơn, đẹp hơn

Câu 2 (trang 124 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Hai câu thơ cuối giống hệt nhau về: cấu trúc ngữ pháp, từ vựng, số lượng chữ

– Tác dụng phép đối: Làm nổi bật hình ảnh, sự vật, giúp tác giả thể hiện rõ dụng ý của mình

Câu 3 (trang 124 sgk ngữ văn 7 tập 1)

Các động từ được sử dụng trong bài Tĩnh dạ tứ: nghi (ngỡ), vọng (nhìn), đê (cúi), tư (nhớ)

Từ các động từ này ta có thể nắm được mạch cảm xúc của bài thơ. Bốn động từ đều bị lược đi chủ thể hành động, nhưng có thể khẳng định rõ chủ thể trữ tình và chủ thể hành động

+ Nhân vật trữ tình tỉnh dậy thì nhận thấy ánh sáng lọt qua khe cửa, ngỡ ngàng không rõ sương hay trăng, nhà thơ ngẩng lên như thể xác nhận

+ Khoảnh khắc ngẩng đầu gợi lên trong lòng tác giả niềm nhớ thương quê cũ

+ Hành động cúi đầu như cố nén đi nguồn cảm xúc đang trào dâng

→ Các động từ được sử dụng trong bài là ngọn nguồn của mạch cảm xúc của nhà thơ.

Luyện tập

Có người dịch hai câu thơ của Lý Bạch sang hai câu thơ lục bát:

“ Đêm thu trăng sáng như gương

Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”

Nếu dịch thành hai câu thơ này sẽ không làm sáng tỏ được tấm lòng cố hương cũng như không thể làm người đọc nhìn thấy cảnh đẹp của đêm trăng thanh tĩnh

+ Hơn nữa cách dịch đó làm làm ta hình dung được những băn khoăn, trằn trọc của nhà thơ trong đêm trăng sáng thanh tĩnh.

+ Các cử động của nhân vật trữ tình dường như không xuất hiện (cử đầu, đê đầu)

→ Các động từ được sử dụng để thể hiện hành động và tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch số 5

I. BÀI THƠ CẢM NGHĨ TRONG ĐÊM THANH TĨNH

Sàng tiền minh nguyệt quang,

Nghi thị địa thượng sương.

Cử đầu vọng minh nguyệt,

Đê đầu tư cố hương.

– Lý Bạch –

Dịch nghĩa

Đầu tường trăng sáng soi,

Ngỡ là sương trên mặt đất.

Ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng,

Cúi đầu lại thấy nhớ quê nhà.

Dịch thơ

Đầu giường ánh trăng rọi,

Mặt đất như phủ sương.

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương.

– Tương Như dịch

II. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM

1. Xuất xứ

Bài thơ được sáng tác khi ông ở xa quê của mình
Bài thơ do Tương Như dịch, in trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, 1987

2. Bố cục (2 phần)

Phần 1 (hai câu đầu): cảnh trăng sáng và tâm trạng của tác giả
Phần 2 (hai câu còn lại): nỗi nhớ quê hương của tác giả
3. Giá trị nội dung

– Bài thơ thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà, xa quê hương trong cảnh đêm trăng thanh tĩnh.

4. Giá trị nghệ thuật

Thể thơ ngũ ngôn cổ thể
Ngôn ngữ giản dị mà tinh luyện
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả và biểu cảm
Nghệ thuật đối


III. SOẠN PHẦN ĐỌC – HIỂU

Câu 1 – Trang 124 SGK

Có người cho rằng bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu là thuần tuý tả cảnh, hai câu cuối là thuần tuý tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?

Trả lời:

Có người cho rằng trong bài thơ này hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau tả tình. Nghĩ như vậy là do theo quán tính xúc cảnh sinh tình: vọng nguyệt hoài hương (ngắm trăng nhớ quê) quen thuộc xưa nay. Thật ra, đọc kĩ hai câu đầu ta thấy không hoàn toàn đơn thuần chỉ có cảnh:

“Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương.”

(Ánh trăng sáng đầu giường

Ngỡ là sương mặt đất.)

Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương.

Chữ sàng (giường) gợi cho người dọc nghĩ rằng nhà thơ đang nằm trên giường mà trằn trọc không ngủ được hoặc đã ngủ rồi tỉnh giấc không ngủ lại được. Trong tình huống ấy, chữ “nghi” (ngỡ là) sử dụng thật chính xác, hợp tự nhiên. Chữ sương gợi màu trắng và cảm giác lạnh. Hai câu thơ trên không những chỉ có ánh trăng mà chứa chan ý vị trữ tình của sự vật trong cảnh.

Hai câu thơ sau:

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương.

(Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng

Cúi đầu nhớ quê hương.)

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương.

+ Hai câu sau tình dâng trào cuồn cuộn để đọng lại thành nỗi sầu nhớ thương qua cụm từ: nhớ cố hương.

+ Cảnh được thể hiện như thế nào? Ngẩng đầu nhìn trăng sáng cả bầu trời cao lồng lộng và một vầng trăng sáng trong vằng vặc thanh tĩnh hiện ra trước mắt người đọc. Một đêm trăng thật đẹp song cũng thật cô đơn.

+ Mối quan hệ giữa cảnh và tình: Cảnh và tình trong bài thơ có mối liên hệ nhân quả, sự tác động qua lại. Vì trăng đẹp quá mà nhớ quê trằn trọc thao thức không ngủ được. Càng thao thức không ngủ càng thấy trăng đẹp hơn.

Tuy nhiên với bài thơ này, nói tức cảnh sinh tình không đủ. Tình ở đây là nhân mà cũng là quả. Vì sao? Vì nhớ quê, trằn trọc thao thức không ngủ được nhìn trăng. Nhìn trăng lại càng nhớ quê nhiều hơn.


Câu 2 – Trang 124 SGK

Tuy không phải là bài thơ Đường luật song Tĩnh dạ tứ cũng sử dụng phép đối.

a. So sánh về mặt từ loại của các chữ tương ứng ở hai câu cuối để bước đầu hiểu thế nào là phép đối.

b. Phân tích tác dụng của phép đối ấy trong việc biểu hiện tình cảm quê hương của tác giả.

Trả lời:

Không phải là một bài thơ Đường luật. Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch là một bài cổ tuyệt (tứ tuyệt cổ phong) nhưng cũng sử dụng phép đối”.

“Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương.”

Ở đây “cử đầu” đối với “đê đầu” và “vọng minh nguyệt” đối với “tư cố hương”. Đúng là số lượng chữ của các bộ phận tham gia đối bằng nhau, cấu trúc ngữ pháp của các bộ phận tham gia đối giống nhau và từ loại của các chữ tương ứng ở hai vế giống nhau, cần chú ý chỉ trong thơ cổ thể, “đầu” mới đối được với “đầu” (đối trùng thanh), còn trong thơ Đường luật thì không thể đối như thế được.

Tác dụng của phép đối ở đây nhằm biểu hiện cụ thể và sinh động tình cảm quê hương.

Trước khi “ngẩng đầu” tác giả đã “cúi đầu” vì có “cúi đầu” mới ngỡ ánh trăng là sương phủ mặt đất. Từ chỗ chỉ thấy ánh trăng ấy, ông đã “ngẩng đầu” để nhìn thấy cả bản thân vầng trăng. Và khi thấy vầng trăng cũng như mình cô độc lạnh lẽo, lập tức tác giả lại “cúi đầu” để suy ngẫm về quê hương. Các cử động “cúi đầu, ngẩng đầu, cúi đầu” liên tục ấy thể hiện sinh động cụ thể hoạt động của tư duy và cảm xúc nói rõ hơn là của tình cảm quê hương.


Câu 3 – Trang 124 SGK

Dựa vào bốn động từ nghi (ngỡ là), cử (ngẩng), đê (cúi) và tư (nhớ) để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.

Trả lời:

Bài thơ ngắn chỉ gồm 20 chữ mà có tới 5 động từ: nghi (ngỡ), cử (ngẩng), vọng (nhìn), đê (cúi), tư (nhớ). Thực ra nếu theo dõi thứ tự của bốn động từ này, chúng ta có thể nhận ra mạch cảm xúc của bài thơ. Bốn động từ đều bị lược đi chủ thể hành động nhưng có thể dễ dàng khẳng định, chủ thể trữ tình, chủ thể hành động ở đây chính là tác giả. Năm động từ tạo thành một mạch cảm xúc vận động rất nhanh, có thể hiện thực hoá lại bằng văn xuôi như sau: nhân vật trữ tình (nhà thơ) tỉnh dậy (hoặc đang mơ màng ngủ) thì nhận ra ánh sáng đang lọt qua khe cửa, ngỡ ngàng vì không biết là sương hay là trăng, nhà thơ ngẩng lên như là một hành động để mà xác nhận. Nhưng rồi chính cái khoảnh khắc ngẩng đầu kia lại gợi về trong lòng tác giả nỗi niềm của người xa xứ. Hành động cúi đầu như là đang cố nén đi cái cảm xúc mãnh liệt đang trào dâng.

Tĩnh dạ tứ với những từ ngữ giản dị mà tinh luyện, bài thơ đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.


LUYỆN TẬP

Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ sau:

“Đêm thu trăng sáng như gương

Lý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà”

Dựa vào những điều đã phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu thơ theo nguyên thể hoặc theo thể lục bát.

Trả lời:

Nếu dịch thành hai câu thơ này sẽ không làm sáng tỏ được tấm lòng cố hương cũng như không thể làm người đọc nhìn thấy cảnh đẹp của đêm trăng thanh tĩnh. Hơn nữa cách dịch đó làm ta hình dung được những băn khoăn, trằn trọc của nhà thơ trong đêm trăng sáng thanh tĩnh. Các cử động của nhân vật trữ tình dường như không xuất hiện (cử đầu, đê đầu)

→ Các động từ được sử dụng để thể hiện hành động và tâm trạng của nhân vật trữ tình.

TỔNG KẾT
Với những từ ngữ giản dị mà tinh luyện, bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lí Bạch đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía tình quê hương của một người sống xa nhà trong đêm trăng thanh tĩnh.

Bài soạn “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh” của Lí Bạch số 3

I. Tác giả

– Lý Bạch (701 – 762) là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc vào thời nhà Đường. Tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ.

– Quê hương: Cam Túc (huyện Thiên Thủy – tức Lũng Tây ngày xưa).

– Khi cong nhỏ, ông cùng với gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thờ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.

– Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa, ông được người đời gọi là “thi tiên” (tiên thơ).

– Thơ ông thường thể hiện một tâm hồn tự do, hào phóng. Hình ảnh trong thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ, ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện.

– Đề tài: thường viết nhiều và viết hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.

– Một số tác phẩm tiêu biểu:

Tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp: Cổ phong, Quan san nguyệt…
Cảm thông cho người chinh phụ: Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca…
Tình bạn: Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu…
Tình yêu đôi lứa: Oán tình, Xuân tứ…
Tình cảm với quê hương: Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn…
Đặc biệt là thơ về tửu (rượu): Đối tửu, Thương tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt…


II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Trong thơ Lý Bạch, hình ảnh ánh trăng thường xuất hiện rất nhiều và đa dạng, ý nghĩa vô cùng phong phú.

– Chủ đề của bài thơ: “Vọng nguyệt hoài hương” (Trông trăng nhớ quê), cách thể hiện rất giản dị mà độc đáo.

– Thuở nhỏ, ông thường lên đỉnh núi Nga Mi ở quê ngắm trăng. Từ năm 25 tuổi, ông phải xa quê nên mỗi lần nhìn thấy ánh trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê hương.

– Lý Bạch sáng tác bài thơ trên khi ông đang ở rất xa quê hương của mình.

2. Thể thơ

– Bài thơ được viết theo hình thức cổ thể – một thể thơ trong đó mỗi câu thường có 5 hoặc 7 chữ, không chịu ảnh hưởng bởi những quy tắc niêm luật và đối.

– Ngũ ngôn cổ thể (4 câu, mỗi câu 5 chữ).

3. Bố cục

Gồm 2 phần:

Phần 1. 2 câu đầu: Hình ảnh ánh trăng trong đêm thanh tĩnh.
Phần 2. 2 câu cuối. Nỗi nhớ quê hương của tác giả.


III. Đọc hiểu văn bản

1. 2 câu đầu: Hình ảnh ánh trăng trong đêm thanh tĩnh

Hình ảnh ánh trăng được miêu tả qua:

– Các từ “minh ”, “quang”, “sương”: Ánh trăng trong đêm rất sáng và mở ảo, chiếu xuống mà nhìn là dưới mặt đất đất đang phủ một làn sương mờ ảo.

– Từ “sàng” (giường): Giúp người đọc nhận biết được vị trí ngắm trăng của nhà thơ. Ánh trăng xuyên qua khe cửa, chiếu xuống đầu giường chứng tỏ trăng đêm rất sáng và trời cũng đã khuya rồi. Nhưng lúc này, nhà thơ vẫn còn thức để ngắm trăng – chứng tỏ tâm trạng thao thức, băn khoăn của nhà thơ.

– Từ “nghi” và từ “sương” cùng xuất hiện bổ xung ý nghĩa cho nhau:

“nghi” nghĩa là tưởng như, ngờ như, dường như
“sương”: chỉ màn sương đêm trắng mịt mờ, khiến cảnh vật mờ ảo.
=> Ánh trăng chiếu xuống vạn vật trong đêm tối mờ ảo khiến cho nhà thơ không phân biệt được đâu là trăng đâu là màn sương đêm.

– Tâm trạng của nhà thơ:

Đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng.
Hình ảnh ánh trăng trong con mắt nhà thơ mờ ảo: gợi ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa thưởng trăng.
Thể hiện tâm trạng bâng khuâng và nhớ nhung.
=> Hai câu đầu khắc họa hình ảnh đêm trăng đầy thơ mộng.

2. 2 câu cuối. Nỗi nhớ quê hương của tác giả

– Từ “vọng” được hiểu theo hai cách:

Nhìn ra xa – hành động ngắm trăng của nhà thơ.
Ngóng trông, nhìn về quê hương ở phía xa.
=> Từ vọng đã diễn tả nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.

– Lý Bạch đã xây dựng hai hình ảnh đối lập: “cử đầu” – “đê đầu” (ngẩng đầu – cúi đầu) giúp cho câu thơ trở nên đăng đối nhịp nhàng:

Ngẩng đầu: Nhìn về phía ánh trăng đang chiếu sáng khắp mặt đất, cả quê hương của nhà thơ.
Cúi đầu: Nhớ về quê cũ, nhà thơ đang tự nhìn vào nội tâm mình – tự đối mặt với nỗi nhớ quê hương da diết.
– Tình cảm của nhân vật trữ tình được bộc lộ trực tiếp qua từ “tư” (nhớ): nỗi nhớ quê hương sâu đậm.

=> Hai câu sau khắc họa tình cảm nhớ thương của nhân vật trữ tình dành cho quê hương.

IV. Tổng kết

– Nội dung: Bài thơ đã thể hiện tình yêu quê hương cùng nỗi nhớ da diết của một người sống xa quê trong đêm trăng thanh tĩnh.

– Nghệ thuật: Thể thơ ngũ ngôn cổ thể, hình ảnh giản dị mà tinh tế…

V. Trả lời câu hỏi

Câu 1. Có người cho rằng trong bài Tĩnh dạ tứ, hai câu đầu thuần túy tả cảnh, hai câu cuối là thuần túy tả tình. Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?

* Ý kiến: Không tán thành.

* Lý do:

– Nội dung chính của hai câu đầu là miêu tả ánh trăng trong đêm. Nhưng qua đó, người đọc vẫn thấy được tâm trạng của nhân vật trữ tình:

Đầy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của ánh trăng.
Hình ảnh ánh trăng trong con mắt nhà thơ mờ ảo: gợi ra hình ảnh Lý Bạch vừa uống rượu vừa thưởng trăng.
Thể hiện tâm trạng bâng khuâng và nhớ nhung của tác giả.
– Trong hai câu cuối không chỉ bộc lộ tình cảm của nhà thơ mà vẫn miêu tả hình ảnh ánh trăng (ngẩng đầu nhìn trăng sáng).


Câu 2. Tuy không phải là một bài thơ đường luật nhưng “Tĩnh dạ tứ” cũng sử dụng phép đối:

a. So sánh về mặt từ loại: Cùng loại: động từ (ngẩng đầu – cúi đầu) và danh từ (trăng – quê hương), tính từ (sáng – cũ).

b. Tác dụng: Tạo sự đăng đối trong hành động, góp phần diễn tả tâm trạng của nhà thơ.


Câu 3. Dựa vào bốn động từ nghi (ngỡ là), cử (ngẩng), đê (cúi) và tư (nhớ) để chỉ ra sự thống nhất, liền mạch của suy tư, cảm xúc trong bài thơ.

– Bốn động từ cho thấy mạch suy tư, cảm xúc của nhà thơ: Khi bắt gặp ánh trăng, nhà thơ cứ ngỡ đó là màn sương đêm. Rồi ngẩng đầu nhìn lên mới nhận ra đó là trăng chứ không phải sương, để rồi ánh trăng khiến nhà thơ nhớ đến quê hương. Và hành động cuối cùng là cúi xuống giống như là đang kìm nén cảm xúc đang trào dâng trong lòng.

=> Hành động gắn liền với tâm trạng của tác giả, góp dẫn diễn tả nỗi nhớ quê hương sâu sắc.

II. Luyện tập

Có người dịch Tĩnh dạ tứ thành hai câu thơ:

Đêm thu trăng sáng như sươngLý Bạch ngắm cảnh nhớ thương quê nhà

Dựa vào những điều phân tích ở trên, em hãy nhận xét về hai câu thơ dịch ấy. Nếu có thể, thử dịch thành bốn câu thơ theo nguyên thể hoặc theo thể lục bát.

– Nhận xét: Hai câu thơ trên đã diễn tả được nội dung chính của bài thơ Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch: Hình ảnh ánh trăng và nỗi nhớ quê hương.

– Gợi ý dịch:

Đầu giường ánh trăng sáng rọiCứ ngỡ rằng mặt đất đang phủ sươngNgẩng đầu lên thấy trăng sángCúi đầu ngậm ngùi nhớ về quê xưa.

Bài Viết Bạn Nên Xem

Trả lời

Back to top button